May mắn là thế lửa đã yếu dần. Ngọn lửa bị đám khói đặc bao trùm, những con dơi đen dính lửa đã bắt đầu rơi xuống. Nếu không nhìn kỹ, thì cảnh tượng ấy rất giống với cảnh mặt trời bị Hậu Nghệ bắn, kéo theo một làn khói sau mông, rơi xuống đất.
Giang Luyện phải thừa nhận, trận cháy này của Bạch Thủy Tiêu quá xuất sắc. Tầm mười sợi dây thừng mà Sơn quỷ thả xuống, gần như đều không thoát khỏi. Chỉ có mỗi hai sợi của anh và Thần Côn, do khoảng cách khá xa, nên không bị cháy rụng ngay —— nhưng tình hình cũng chẳng lạc quan. Phía trên cao của hai sợi dây này đều đã bị bén lửa, chẳng qua thế lửa không lớn, nên vẫn chịu đựng được một thời gian nữa thôi.
Thần Côn?
Lúc này Giang Luyện mới nhớ tới ông. Anh vội vàng cúi đầu nhòm xuống bên dưới.
Cảm ơn trời đất, Thần Côn đang dán người trên vách đá cách chỗ anh khoảng một trăm mét, giống như một con nhện to bám trên vách tường. Có lẽ là do lúc trước kêu lâu, bây giờ mệt rồi, nên ông không còn kêu gào nữa, nhưng hiển nhiên ông vẫn còn rất tỉnh táo: Dù sợi thừng cứ mãi lắc lư như một con quay, thì tay chân ông vẫn cứ vùng vẫy.
Vận may của người này, đúng là ngang với cá chép (cẩm lý): Dù ông còn chưa học xong mấy thao tác cơ bản, thì đã bị rơi xuống sườn núi có độ khó cao, lại còn tốc độ trượt cao mà dây thừng vẫn còn nguyên vặn. Quan trọng nhất là ông có thể dừng lại kịp thời —— Với độ sâu hiện tại của ông, ít cũng phải có ba trăm mét, mà dây thừng tĩnh lực của Sơn quỷ, có hình dạng và cấu tạo là ba trăm hai mươi mét. Nói cách khác, ông mà trượt xuống thêm một đoạn nữa, thì sẽ gặp phải "điểm nối". Đang trượt với tốc độ cao, mà gặp phải vật cản, thì mức độ nguy hiểm không cần nói ai cũng biết, không chết cũng phải mất một lớp da.
Giang Luyện gọi ông: "Chú bắt lấy dây thừng, ổn định cơ thể mình lại! Nhìn xem xung quanh có chỗ nào đặt chân được không, dây thừng sắp đứt rồi!"
Chắc hẳn Thần Côn đã nghe được lời anh, vì dây thừng của ông bỗng rung rung, đủ để thấy được ba từ "sắp đứt rồi" kia đã làm ông hoảng sợ thế nào.
Mạnh Thiên Tư cũng nhìn xuống theo: "Theo vị trí đó của ông ta, thì xung quanh đó hẳn là có một tảng đá, bà cố Đoạn chúng tôi từng nghỉ chân ở đó."
Giang Luyện "ừ" một tiếng: "Dây thừng của chúng ta cũng quá sức, lại phải gánh trọng lượng của hai người, trên dây còn bị lửa đốt. Đi lên thì nguy hiểm, mà đám Mạnh Kính Tùng cũng chẳng thả thêm dây mới xuống ngay được... Giờ chỉ còn cách đi mau trượt xuống thôi."
Mạnh Thiên Tư giương mắt nhìn anh, giống như đột nhiên nhận ra điều gì đó, tay cô thả lỏng ra, lòng bàn tay như muốn đẩy ra bên ngoài, nhưng rồi lại dừng lại.
Giang Luyện cũng đã nhận ra, anh vội vàng dịch người về phía sau.
Tất nhiên anh biết cái tư thế này rất mập mờ, nhưng tình hình lúc ấy quá nguy hiểm. Dây thừng của cô đã đứt, không còn thứ gì để mượn lực, anh chỉ có thể ôm lấy cô. Mà bây giờ cũng không thể buông ra được, vì buông ra là cô rơi xuống ngay.
Anh chỉ có thể coi như không biết gì, cúi đầu nhắc nhở cô buộc lại dây bảo hộ: "Cô có thể dùng khóa GO khóa dây bảo hộ của mình và dây thừng lại, như vậy thì hệ số an toàn sẽ cao hơn, mà tôi cũng có thể buông tay ra được."
Mạnh Thiên Tư cũng giả vờ như tư thế này rất bình thường, mình không chú ý và cũng chẳng để ý đến nó. Cô cúi đầu xuống, nhanh chóng khóa dây bảo hộ lại.
Giang Luyện nhìn thấy chỗ cổ sau tai cô hơi hồng hồng.
Mẹ ơi, bầu không khí lại bắt đầu ngượng ngập.
Giang Luyện hắng giọng: "Được rồi, không cần phải giấu nữa, tôi biết cô đang nghĩ cái gì."
Da đầu Mạnh Thiên Tư tê dại, ngón tay cô xuyên qua khe hở của chiếc khóa, đầu ngón tay hơi cuộn tròn lại. Cô ngẩng đầu nhìn anh: "Hả?"
Cô đang nghĩ cái gì? Cô chẳng nghĩ gì cả, đầu cô trống không nhé.
Giang Luyện nói: "Cô muốn cảm ơn tôi, nhưng vì hai ngày nay đã quen bắt nạt tôi rồi, nên bây giờ thấy xấu hổ... Không sao đâu, tôi biết cả rồi, không cần cảm ơn."
Mạnh Thiên Tư bật cười.
Đúng là cô phải cảm ơn Giang Luyện, nhưng do tình hình quá gấp gáp cô vẫn chưa tìm được cơ hội thích hợp. Giờ người ta đã mở lời trước rồi, mà mình mới đi cảm ơn thì lại không đủ thành ý...
Mạnh Thiên Tư ngẩng đầu nhìn đoạn dây thừng bên trên, khói đen vẫn chưa tan đi, ba đốm cháy trên dây thừng đã không còn ánh lửa nữa.
Cô nói với Giang Luyện: "Anh xuống nhanh thật đấy."
Giang Luyện cười.
Anh nói: "Không phải tôi nói khoác với cô, nếu không phải ban nãy tôi bị gọi đi rửa bát khẩn cấp, thì còn có thể xuống nhanh hơn ấy."
Nói đến đây, anh đứng thẳng người dậy: "Đi thôi, ta phải nắm chắc thời gian."
Một sợi thừng, treo hai người, trên dây thừng còn có vết lửa đốt, tất nhiên không thể chịu được sự dao động quá lớn. Nói cách khác, rõ ràng tình huống bây giờ đang rất gấp gáp, ai cũng muốn trượt một phát xuống luôn, nhưng lại phải kiềm chế, trượt từ từ xuống dưới. Nếu bên tốc độ phải giữ nguyên, thì càng không thể bỏ lỡ thời gian, chậm trễ một giây nghĩa là đã thêm một giây nguy hiểm.
Anh vừa đứng dậy, thì vách đá sau lưng đã lộ ra.
Mạnh Thiên Tư mới liếc qua đã trông thấy nơi anh vừa dựa lưng, có rất nhiều vết máu. Bên trên một khối đá nhọn lồi ra ngoài, còn có cả những giọt máu đang nhỏ xuống dưới.
Tim cô khẽ run lên, ánh mắt nhìn về phía lưng Giang Luyện theo bản năng. Nhưng vì anh đang nghiêng người, nên cô chỉ có thể nhìn thấy miếng vải áo nhuốm máu bị mài thành sợi nhỏ rũ trên lưng anh.
Cơ thể bắt đầu rơi xuống, là do dụng cụ trượt xuống gây nên.
Giang Luyện ngửa đầu, vẻ mặt chăm chú, một tay anh túm dây thừng, một tay chậm rãi khống chế phanh của dụng cụ trượt xuống: Động tác đó, nhìn thì rất đơn giản, nhưng thực chất nó đòi hỏi kỹ thuật rất cao. Nếu là người không có đủ kinh nghiệm thì rất khó có thể khống chế được.
Bờ môi Mạnh Thiên Tư khẽ ngập ngừng: Màu sắc của bàn tay đang điều khiển dụng cụ của anh hơi lạ, cô nhìn kỹ mới biết đó là do da tay bị mài mòn, làm máu dưới da chảy ra, có mấy vết máu nhỏ còn đang chảy dọc trên cổ tay anh.
Cô muốn nói gì đó, nhưng lại bị nghẹn lại trong cổ họng. Cô cảm thấy tất cả mọi lời nói vào thời điểm này đều rất dư thừa, kể cả lời cảm ơn cũng vậy.
Mạnh Thiên Tư ngẩng đầu lên, lại nhìn về phía vách đá nhuốm máu người kia.
Khoảng cách xa, màu sắc cũng nhạt dần, như một vết chu sa đậm màu in ở trên vách đá.
(*) Chu sa: loại mực đỏ chuyên dùng để vẽ bùa
***
Đúng như sự dự đoán của Giang Luyện. Thần Côn đã phải rất vất vả mới có thể dừng lại trước khi đến chỗ nút thắt đầu tiên.
Một lần còn lạ, hai lần đã quen, cuối cùng ông đã nhớ ra cái dụng cụ trượt xuống này phải dùng như thế nào: Muốn dừng lại, phải khóa nó vào, vậy thì người mới có thể duy trì tư thế lo lửng được.
Sau khi dừng lại rồi, ông lại một lần nữa chứng thực lời Giang Luyện nói: Ông không khống chế được sự thăng bằng, làm cho dây thừng xoắn lại theo chiều kim đồng hồ, sau đó lại quay ngược trở về. Thần Côn bị dây thừng xoay tròn đến mức đầu choáng mắt hoa, chiếc kính trên sống mũi cũng bị chuyển sang chỗ khác —— một bên gọng kính ôm lấy tai ông, bên còn lại thì đã rơi xuống cổ.
Trong tình huống đó, tất nhiên Thần Côn biết mình phải bình tĩnh, không được giãy giụa, chờ dây thừng tự dừng lại. Giống như người mới học bơi, càng giãy khỏe thì càng chìm sâu, ngược lại, nếu thả lỏng cơ thể thì có thể từ từ nổi lên trên mặt nước.
Ông giãy giụa là có nguyên nhân.
Ảnh của A Huệ rơi mất rồi.
A Huệ, tên đầy đủ là Thịnh Trạch Huệ, thuộc tộc Hắc Miêu. Trước đó, cái con cổ trùng mà Thần Côn từng khoe khoang với hai Thẩm là bằng cánh tay bị ông đè bẹp, có liên quan với Thịnh Trạch Huệ.
Tất nhiên bà ấy không quen biết gì Thần Côn. Bà chết ở trong một cái thôn nhỏ ở Hà Nam từ tận những năm bốn mươi của thế kỉ trước. Nghe nói bà chết vì một căn bệnh rất kỳ lạ, làn da phía sau lưng bị bong ra một mảng, nơi đó để lại một vết sẹo có hình dạng rất giống một con bươm bướm đỏ như máu.
Nói đúng hơn thì bà ấy chết vì "tự tử": Bà ấy dùng hai đồng bạc làm tiền thuê, thuê người trong thôn khiêng quan tài của mình vào trong một hang động trong núi sâu, sau đó tự nằm yên nghỉ trong quan tài, và bảo các thôn dân đóng đinh bên ngoài quan tài.
Các thôn dân vì ham tiền, nên dù biết làm như vậy không tốt, thì cũng vẫn làm. Nghe nói sau khi bọn họ đi rồi, Thịnh Trạch Huệ luôn dùng móng tay cào vào vách quan tài. Những âm thanh sắc nhọn đó khiến người nghe được phải rùng mình.
Sau này mới biết bà dùng thân mình làm cổ, lấy mạng mình nuôi cổ máu, để trả thù những kẻ đã hại cả đời bà.
Trong một dịp tình cờ, Thần Côn có được hai tấm hình của bà, thì cảm thấy như bị sét đánh trúng. Sau này biết được thân thế của bà, thì càng thổn thức hơn. Ông luôn miệng "A Huệ nhà tôi" làm mấy người bạn của ông trêu rằng đó là "bạn gái" của ông. Nhưng ông không chỉ không tức giận, mà trái tim già trong lồng ngực còn nhảy loạn như nai con, dần dà ông cũng coi nó là thật.
Hai tấm hình đó, một tấm đặt ở nhà, một tấm mang theo người —— Bởi vì việc "nghiên cứu" của ông, hay phải đến nơi hoang vắng, mười ngày nửa tháng chẳng gặp được ai cũng là chuyện bình thường, nên rất cô đơn. Vì cái gọi là "Đêm dài dằng dặc, tối nay ai ở cùng ta", bạn bè của ông đều đã có gia đình, bận rộn với công việc, không rảnh để nghe ông lải nhải. Người không hiểu ông thì lại nghĩ ông có vấn đề. Chỉ có tấm ảnh này, là có thể nghe ông nói liên miên, lải nhải mà không có ý kiến gì cả.
Ông thường xuyên cầm tấm ảnh này, kể hết suy luận và phát hiện của mình ra, sau đó hỏi bà: "A Huệ, em cảm thấy thế nào?"
Trên tấm hình là nụ cười yếu ớt, nhẹ nhàng, nửa giận nửa không của Thịnh Trạch Huệ.
Thần Côn chưa từng yêu cầu xa vời rằng trên đời này có người có chung chí hướng với ông. Chỉ cần có một tấm hình yên lặng nghe ông nói, không cắt lời ông, không cười nhạo ông, không ghét bỏ ông là ông đã thấy thỏa mãn rồi. ...
Nhưng trong cú rơi gấp ban nãy, do người ông nghiêng ngả, chiếc túi áo cũng nghiêng theo, và tấm hình kia cũng rơi ra mất. Sau mất vòng cuộn tròn trên không trung, nó rơi xuống dưới đáy vực. Thần Côn vội vàng giơ tay ra vớt, nhưng ông đang bị treo trên dây thừng, thì sao mà vớt được? Thế là càng cố vớt thì càng loạn, dây thừng càng xoắn lại. Còn tấm hình kia thì giống y như một con bướm trắng, nhẹ nhàng bay lượn, cho đến khi bị bóng đen nuốt chửng.
Thần Côn ủ rũ, ông cảm thấy tấm hình này bay đi, cũng giống như duyên phận của ông giảm bớt: Vốn là hai người chưa từng gặp mặt, di vật của Thịnh Trạch Huệ lại bị thiêu sạch, chỉ còn mỗi hai tấm ảnh bị đốt dở này. Bây giờ ông còn làm mất một tấm nữa!
Ông vừa chán nản vừa mất mát, vốn định kệ cho người mình xoay tròn theo dây thừng, để trừng phạt bản thân, thì bỗng nghe thấy Giang Luyện nói: Dây thừng sắp đứt rồi?
Ôi mẹ ơi, Lạt Ma Thương Ương Gia Thố từng nói: "Chuyện trên đời, ngoài chuyện sống chết ra, cái nào chẳng là việc vặt vãnh." Nếu mạng cũng chẳng còn, thì lấy gì để nghiên cứu học thuật? Yêu đương gì đó đứng sang bên đi.
Ông nghe theo lời Giang Luyện nói, vội vàng giơ tay ra túm dây thừng, rồi nắm dụng cụ trượt xuống trong tay, nhìn ra xung quanh. Khi thấy ở chỗ nghiêng bên dưới, cách nơi đây bảy tám mét, có một tảng đá nhô ra. Kích thước của tảng đá đó phải ngang với cái bàn tròn trong tiệc cưới, đủ để đặt chân.
Thần Côn vui sướng, hít sâu một hơi, dùng chân đạp vào vách đá, vừa thả dây thừng vừa đung đưa về phía tảng đá. Khi chỉ còn lại hai, ba mét, lực kéo phía trên đột nhiên biến mất.
Lúc này thì thằng ngu cũng biết là đã xảy ra chuyện gì. Nói thì chậm nhưng chuyện xảy ra lại rất nhanh, Thần Côn hét lên một tiếng, dùng hết sức mình nhảy xuống chỗ tảng đá. Lúc rơi xuống đất, hai chân bị sức nặng cơ thể ép xuống, đau đến mức ông ngã lăn ra. Nhưng đau thì cứ đau, trong lòng ông vẫn rất vui vẻ: Hiển nhiên, ông đã được an toàn.
***
Giữa không trung, vẫn còn một vài con dơi lửa đang rơi lả tả; phía trên cao, Mạnh Thiên Tư và Giang Luyện nhìn thấy dây thừng tĩnh lực của Thần Côn đã đứt. Để tránh trường hợp bất ngờ, hai người bám vào vách đá, lấy tay chân bò xuống dưới làm chủ, còn dây thừng chỉ là vật phụ. Nhưng làm vậy thì tốc độ còn chậm hơn nhiều.
Thần Côn bật chiếc đèn pin trên đỉnh đầu lên, định quan sát tình hình xung quanh. Trong lúc vô tình cúi đầu xuống, ông bỗng nhận ra dưới mông mình có chữ.
Là chữ được khắc bằng dao. Qua vết khắc, có thể nhìn ra tài nghệ của người dùng dao, hoặc là độ sắc bén của con dao: Những chữ đó, giống như những chiếc móc sắt, mọi chữ đều rất nghiêm chỉnh. Mà không phải chỉ có một hàng đâu, chẳng qua chỗ ông ngồi vừa hay ở chính giữa thôi.
Thần Côn vội vàng ngồi dậy, vừa nhìn vừa lùi lại. Không biết những chữ này được khắc đã bao lâu, mà bên trên đã phủ đầy lá rụng. Ông dùng tay gạt hết chúng ra, mới có thể nhìn rõ. Đây không phải thơ, cũng chẳng phải văn vần, mà giống như những lời được khắc bừa trong khi uống rượu.
Ta uống nửa vò, để quân ba ngụm,
Không có duyên gặp mặt, lại có duyên uống rượu chung.
Bên dưới cùng, còn có một dòng chữ nho nhỏ, chắc là tên người khắc chữ.
Đoạn Văn Hi.
***
Đoạn Văn Hi...
Cái tên này sao quen thế nhỉ. À, ông nhớ ra rồi, lúc Mạnh Kính Tùng giải thích về cái hố trời này cho ông, có nhắc tới Sơn quỷ có một bà cố Đoạn tên là Đoạn Văn Hi, hơn tám mươi năm trước từng xuống dưới vách núi này.
Thần Côn cảm thấy phấn khích: Hơn tám mươi nắm trước đó!
Có vẻ ở quanh đây còn có rượu, để đâu nhỉ?
Ông nhìn ra xung quanh, ngay sau đó đã nhìn thấy ở chỗ nối liền vách núi với tảng đá này, có một chỗ lõm vào. Trong chỗ lõm đó, có một chiếc bình hồ lô thò đầu ra ngoài. Ông bò qua chỗ đó, móc chiếc bình ra.
Đó là một chiếc bình hồ lô rất tinh xảo. Nó không lớn lắm, có thể nằm gọn trong tay. Bên hông chiếc bình còn buộc một chiếc khăn đỏ, có điều độ tuổi đã cao, nên bị mục nát gần hết.
Thần Côn giơ cao chiếc bình lên lắc lắc. Bên trong vẫn còn tiếng nước, chỉ là không nhiều lắm.
Thần Côn kinh ngạc: Mặc dù hồ lô là thứ chuyên đựng rượu, nhưng nó thuộc về loại thực vật thân cỏ, độ kín không cao, dùng để trữ rượu thì chỉ mấy năm là bay hơi sạch. Vậy thì hơn tám mươi năm trôi qua, sao hồ lô rượu này vẫn còn đến tận bây giờ?
Ông cầm đèn pin trên đầu xuống, để quan sát kỹ hơn chiếc bình này.
Chiếc bình được làm rất tinh tế, bên trong là đất nung, chỉ có bên ngoài là lớp vỏ hồ lô thôi. Trên miệng bình có một cái nút, mặc dù đã bị mở ra, nhưng khi Đoạn Văn Hi đậy lại thì đã dùng sáp nến nhỏ ở xung quanh rồi. Nhiệt độ của nơi này lại thấp hơn bên ngoài nhiều, lại không có ánh sáng, nên dù là ngày nắng gắt, sáp nến cũng không bị ánh mặt trời hòa tan. Đúng là có thể bảo tồn được đến ngày nay.
Thần Côn nuốt nước bọt, trái tim trong ngực nhảy bùm bùm.
Đoạn Văn Hi mời ông uống rượu đó!
Chắc chắn ông chính là người đầu tiên leo lên tảng đá này sau Đoạn Văn Hi. Có lẽ Đoạn Văn Hi cũng không thể đoán được ai sẽ nhận được nửa bình rượu này của bà, nên bà mới nói "Không có duyên gặp mặt, lại có duyên uống rượu chung".
Đúng là một người vô cùng phong nhã, phong nhã y như ông vậy!
Đầu óc Thần Côn hơi lâng lâng. Từ "quân" trong "để quân ba ngụm" giờ phút này đã được xác định, chính là ông, Thần Côn quân.
Thật không ngờ hơn tám mươi năm trước đã có ba ngụm rượu ngon được giấu ở dưới sườn núi này, để đợi ông đến uống. Khi đó, ông còn chưa có mặt trên đời cơ.
Duyên phận! Đây đúng là duyên phận! Không phải bàn cãi gì nữa!
Thần Côn vặn nắp bình ra, vặn rồi lại vặn, động tác của ông càng lúc càng chậm, cuối cùng... dừng hẳn lại.
Ông ngửi thấy một mùi hôi thối khó có thể hình dung nổi, khác hẳn với mùi khét lẹt của con dơi bị đốt cháy.
Ông cảm thấy có một con gió lạnh lẽo thổi qua, da đầu cũng căng cả lại. Không phải là có gió thật, mà là do hoàn cảnh xung quanh thay đổi, khiến người ta cảm thấy lạnh run.
Thần Côn nhìn thấy trên mặt đất có một cái bóng vừa to vừa dài, đó là...
Người ông bắt đầu run lên, hai hàm răng gõ vào nhau lách cách. Có lẽ là do người quá run, nên ông còn cảm thấy mọi khớp xương trên người mình đều run theo.
Ông ngẩng đầu lên.
Đó là một con rắn, mãng xà.
Nó dài khoảng hai mươi mét, người to như cái thùng nước cỡ bự. Màu sắc gần như trắng bệch, trên người là những chiếc vảy lấp lánh xếp sát nhau. Nó đang lượn lờ trên vách đá, đầu rắn chậm rãi rủ xuống chỗ ông, thỉnh thoảng lại thè lưỡi ra. Chiếc lưỡi đỏ như máu dài chừng nửa mét, mỗi lần thè ra, là lại phát ra những tiếng xèo xèo, giống như không khí xung quanh đều bị xé rách.
Đầu óc Thần Côn trống rỗng, ông cứ đứng đờ ra đó: Ánh đèn pin xuyên qua thân rắn, tạo thành một cái bóng đen di động ở trên vách đá. Cái bóng đó còn bự hơn người con rắn thật nhiều. Nó giống như một làn khói đen mờ mịt, muốn nuốt chửng cả trời đất vào trong bụng.
Con rắn lớn thế này, không biết đã thay da bao nhiêu lần. Theo lẽ thường, rắn không phải động vật sống trên sườn núi. Chẳng lẽ là bị đám dơi lửa kia quấy nhiễu?
Thần Côn nhìn chằm chằm con mắt to như nắm đấm của con rắn, quên mất cả việc nuốt nước bọt. Trong đầu ông đang có một suy nghĩ hoang đường: Chẳng lẽ con rắn này là người canh giữ bình rượu. Do mình đụng vào bình rượu nên nó mới mò ra?
Thế là ông run rẩy giơ bình rượu lên, trên mặt là một nụ cười còn khó coi hơn cả khóc, cổ họng khô khốc nặn ra được mấy chữ: "Hay là... mày cầm lấy nó đi?"
Con rắn đó di chuyển cơ thể, tần suất thè lưỡi tăng cao, tiếng xèo xèo cũng nhiều hơn. Đầu và cổ nó vặn vẹo thành hình chữ S.
Xong rồi. Não Thần Côn nổ tung.
Ông từng đến hoang mạc Tây Bắc, kết bạn với một người hiểu rắn. Trong xã hội xưa, rắn được xem là một loài rất thông minh, được tôn là "Liễu Thất gia". Vì vậy người bạn của ông lấy biệt danh là Liễu Thất. Ông ấy là một người làm nghề bắt rắn, bán rắn. Liễu Thất từng nói với ông, trước khi rắn tấn công, thường có hai đặc điểm, một là thè lưỡi liên tục, hai là đầu và thân tạo thành hình chữ S, nó được gọi là tấn công hình chữ S.
Tất cả đều có dấu hiệu rồi. Trước có kỹ thuật S khiến ông ngã xuống vách núi, sau lại có con rắn tấn công hình chữ S. S là điểm kết thúc kiếp này của ông, là số mệnh mà ông có nối thêm cánh cũng chẳng thể thoát được. Thảo nào tấm hình của A Huệ lại rời bỏ ông, thảo nào Đoạn Văn Hi lại để lại cho ông ba ngụm rượu chặt đầu. Tất cả những thứ này, đều do số mệnh an bài!...
Cách chỗ ông hơn mười mét, Giang Luyện và Mạnh Thiên Tư đã nhìn thấy tất cả.
Bọn họ cố gắng nín thở, để không khiến con rắn chú ý tới mình. Mạnh Thiên Tư nhẹ nhàng cởi dây thừng ra, rồi hỏi Giang Luyện: "Anh có thể đẩy tôi qua đó không?"
Giang Luyện tính nhẩm khoảng cách và phương hướng, trả lời cô: "Không thành vấn đề."