Quyển 2: Mất Chuông - Chương 21

Xương Rồng

Vĩ Ngư 28-09-2023 16:30:41

Sơn phổ là do các đời Sơn quỷ đi thăm núi vẽ ra, trong đó bao gồm địa hình, thế núi cùng với những điểm xảo quyệt trong núi. Sơn phổ được ghi chú rất tường tận. Nhưng vì "Sơn phổ không rời sơn", cho nên Sơn phổ nơi nào thì do nơi đó bảo quan, chứ không mang hết về Sơn Quế trai. Hai ngày trước, Mạnh Kính Tùng đã sai người mang Sơn phổ Tương Tây đến Vân Mộng Phong, khóa ở trong một căn phòng riêng. Nay thấy cô muốn xem, thì nhanh chóng gọi Liễu Quan Quốc dẫn người đi lấy ra. Phòng Tân Từ gần đối diện với phòng Mạnh Thiên Tư, nghe thấy động tĩnh, thì thò đầu ra nhìn. Sau đó anh ta trông thấy Liễu Quan Quốc và Khâu Đống bê một cuộn giấy từ căn phòng cuối cùng vào phòng Mạnh Thiên Tư. Tân Từ mò đến gần xem, thì mới biết đó không phải cuộn giấy, mà là một ống trúc chuyên dùng để sưu tầm tranh. Không biết cái ống này làm bằng loại tre trúc gì, mà mùi hương lại giống với mùi thuốc đông y, có lẽ là để đuổi mối mọt. Trên nắp ống được dán giấy làm ký hiệu, ví dụ như "Kinh ba vĩ hai","Kinh sáu vĩ tám" gì đó. Sau khi vào phòng, Liễu Quan Quốc mở ống trúc, rút những tấm da thú bên trong ra. Những tấm da đó có màu của da trâu, hai mặt trái phải đề được bôi một lớp dầu gì đó, khiến mặt da bóng nhoáng. Mặt trên của tấm da chi chít những nét bút mảnh. Liễu Quan Quốc và Khâu Đống di chuyển bàn ghế sang một bên, để trống một mặt tường lớn. Sau đó dùng đinh đóng những tấm da thú kia lên tường. Lúc này Tân Từ mới biết, những ký hiệu trên ống trúc là tọa độ, kinh là kinh độ, vĩ là vĩ độ. Bức tranh này rất lớn, khi đã ghép hết các mảnh vào nhau rồi, thì cả bức tường lớn trống trơn ban nãy đã bị che kín —— Trên bức tranh đó có hình núi, thế sông, đường đi, thôn trại, sống động như thật. Nhưng mà cách vẽ bản đồ của Trung Quốc thời xưa, giống với bản vẽ chiến thuật, nhìn lướt qua thì rất giống với "bức tranh", ví dụ như đỉnh núi, thông xanh, gì đó. Tân Từ xích lại gần Mạnh Thiên Tư, nói thầm: "Tội gì phải xem cái này, rất tốn công, em tải google maps về, được chụp hẳn bằng vệ tinh, muốn xem đâu thì xem." Ai ngờ tai Liễu Quan Quốc lại rất thính: "Tôi biết cái cậu nói. Nhưng mà google maps, hay baidu maps thì cũng là chỉ chụp được lớp da thôi. Còn Sơn phổ của chúng tôi mới vẽ được xương." Tân Từ mỉm cười, nhưng trong lòng thì lại nghĩ: Tưởng mình không biết xem bản đồ à? Cái này nhìn là hiểu ngay, xương với da cái gì. *** Mọi thứ đã đâu ra đấy, Mạnh Thiên Tư chỉ giữ lại mình Mạnh Kính Tùng, còn những người thì đều bị đuổi ra ngoài. Mạnh Kính Tùng hiểu rõ ý cô, không đợi cô lên tiếng, anh ta đã mở sọt Sơn quỷ, lấy ra một con búp bê bằng đồng, cao khoảng một gang tay. Gương mặt của nó rất xấu xí, dữ tợn, y như một con dã quỷ. Hai tay nó đang ra sức cào đỉnh đầu —— Mạnh Kính Tùng cầm búi tóc trên đỉnh đầu nó, mới xoay nhẹ mấy cái, đã xoay được cả nửa cái đầu. Hóa ra con búp bê bằng đồng này rỗng ruột, lớp vỏ mảnh dẹp, cấu tạo giống như con mắt người. Bên trong con búp bê là một lớp dầu màu đen đã đông lại, ở giữa lớp dầu có một đoạn bấc đèn màu đỏ thò ra. Đây là một cây nến tự chế, có sẵn chỗ đánh lửa. Chỉ cần rút một chân của con búp bê ra ngoài, sau đó thổi nhẹ vào trong, là cây nến sẽ tự bốc cháy. Làm xong những việc này, Mạnh Kính Tùng lùi lại bên tường, tắt đèn đi. Trong căn phòng tối om như mực, chỉ có mỗi tiếng đi lại sột soạt của Mạnh Thiên Tư. Một lát sau, bỗng có một tiếng "xoẹt" vang lên, đá đánh lửa cọ vào nhau, tạo ra một ngọn lửa màu đỏ cam, sau đó bấc đèn phía trên bị đốt cháy. Ánh lửa của cây nến này rất kỳ lạ, ở giữa thì là màu trắng bạc, sau đó chuyển dần thành màu đỏ tía ở bên ngoài, ngay cả lớp dầu xung quanh cũng tỏa ra những ánh sáng lấp lánh. Trong bóng tối, ánh lửa đó giống như một con mắt đột nhiên mở ra. Đây chính là "Mắt lửa nhận phổ" chuyên dùng để xem Sơn phổ. Mạnh Thiên Tư mắt lửa lên, đi đến gần Sơn phổ. Cũng rất kỳ lạ, ánh nến soi đến đâu, chỗ đó lại xuất hiện những đường nét lan ra như tơ máu, hoặc là để chú thích, hoặc là để phác họa. Đây mới là điểm đặc sắc của việc đi thăm núi, trong phổ có phổ, trong tranh giấu tranh. Cô gọi Mạnh Kính Tùng: "Anh qua đây xem này." Mạnh Kính Tùng đứng ở bên cạnh, có thể nhìn thấy ánh lửa nghiêng nghiêng, trên tấm da là một bức tường biên giới quanh co, uốn lượn. Đây là bức tường biên giới Miêu Cương, còn được gọi là Trường Thành phương Nam —— Triều nhà Minh, dân Miêu không nghe theo triều đình, vì để ngăn chặn người xâm lấn biên giới, quân đội nơi đó đã dựng lên một bức tường biên giới dài gần bốn trăm dặm, để ngăn cách Miêu sinh và Miêu thục. Họ cho rằng những người bên ngoài bức tường đều là "dân tộc thiếu văn hóa", còn ra lệnh cấm "Miêu không ra ngoài, Hán không vào trong." (*) Miêu sinh là dân tộc Miêu đang được nhắc tới ở trên, còn Miêu thục là những người bên ngoài bức tường biên giới Mạnh Kính Tùng nói: "Còn có một bức tường biên giới nhỏ nữa?" Mạnh Thiên Tư gật đầu: "Đúng vậy." Cô dịch mắt lửa sang bên, quả nhiên bên ngoài xuất hiện một nét vẽ đứt quãng. Người đời đều biết tường biên giới Miêu Cương, tức là bức tường lớn kia, còn bức tường nhỏ này thì rất ít người biết. Hóa ra, lúc trước quân đội bên ngoài sợ người Miêu sinh đi ra làm loạn, thì người Miêu cũng sợ quân đội xông vào quấy nhiễu cuộc sống của họ. Mặc dù bọn họ không có nhiều tiền bạc, sức lực để xây Trường Thành, nhưng lại có rất nhiều pháp sư trừ tà, điều khiển được cổ, vẽ được bùa, hiểu đạo sống cần kiệm —— bọn họ dựa vào thế đất, hình núi, vùng hiểm trở, để sắp xếp rất nhiều cơ quan, cạm bẫy, rải rác trên một con đường. Dù không phải tường, lại hơn hẳn tường, nên được gọi là tường biên giới nhỏ. Nhưng mà quân đội đóng quân nơi biên giới rất kiêng kị người Miêu sinh, tránh còn chẳng kịp, nói gì đến chuyện xông vào trong tường để chinh phục mảnh đất nghèo nàn, toàn trùng độc, khí độc này chứ. Thế là dần dà, bức tường biên giới nhỏ kia cũng bị quên lãng. Mắt lửa dời dịch qua tường biên giới lớn, nhỏ, tiếp tục soi vào bên trong, và dừng lại ở một rừng đá rộng lớn, cao chót vót. Đây là hình ảnh của rừng núi sa nham điển hình trong địa phận Trương gia: Từng cột đá cao lớn, được điêu khắc góc cạnh, đứng sừng sững, lộn xộn giữa thung lũng, rừng sâu, bụi mây xanh um, tươi tốt —— nghe nói hàng tỉ năm trước, nơi này là biển sâu, sau mấy lần vỏ trái đất thay đổi, phong hóa, bị nước biển bào mòn, mới tạo ra được một cảnh tượng hiếm có thế này. Hình ảnh ngọn núi lơ lửng trong bộ phim ăn khách nhất lịch sử "Avatar" của đạo diễn người Mỹ James Cameron, được lấy ý tưởng từ nơi này. (*) Rừng núi: khu rừng toàn núi Nói một cách công bằng thì khu Vũ Lăng Nguyên có danh xưng là "núi lạ ba ngàn, sông đẹp tám trăm", cũng không thua kém gì Hoàng Sơn cả. Không được Từ Hà Khách nhắc tới, phải rời khỏi cuộc chiến tranh giành thứ hạng danh sơn Trung Hoa, không phải lỗi của nó —— Từ Hà Khách chưa từng đến địa phận Trương gia. Mỗi nơi ông ấy đến, đều được viết thành du ký, nhưng khi đến đất Tương thì lại viết "nhật ký gặp cướp ở sông Tương": Lúc ấy đỗ thuyền qua đêm, gặp phải đám cướp giơ đuốc, cầm gậy, vung dao chém lung tung, không biết làm sao đành phải nhảy xuống sông bỏ trốn. Nghèo túng đến mức chỉ còn mỗi một chiếc áo trong, phải mượn chú lái đò manh áo rách để mặc tạm. Giữa mùa đông "gió sớm buốt xương, đất cát cứa chân", mất hết cả hứng đi dạo chơi phẩm núi. Mạnh Thiên Tư di chuyển mắt lửa quanh khu đó, tim Mạnh Kính Tùng đập thình thích: Mảnh rừng này không phải không có lai lịch gì, Sơn quỷ gọi nó là "rừng treo mật núi", là nơi đặt mật núi. Mạnh Thiên Tư nhìn chằm chằm nó, chắc chắn là có vấn đề. Quả nhiên, cô mở miệng hỏi anh: "Bây giờ, chuyện quan trọng nhất của chúng ta là gì?" "Người chết là lớn nhất, mạng người quan trọng, bây giờ chúng ta nên dốc toàn nhân lực đi tìm hung thủ giết Lưu Thịnh." Mạnh Thiên Tư gật đầu, lại hỏi tiếp: "Vậy mục đích chúng ta đến Tương Tây là gì?" Trong lúc cô nói, bên dưới mắt lửa đã ẩn hiện mấy dòng chữ nhỏ màu đỏ tươi, mấy câu đầu là: "Cái đầu mỹ nhân, trăm hoa xấu hổ, con mắt nhỏ dầu, cái lưỡi đi loạn, không gan không ruột không treo mật, có chết có sống một đời tim..." Mạnh Kính Tùng im lặng, đây là câu kệ về mật núi được lưu truyền từ thời cổ. Nói tới cũng rất kỳ lạ, những ghi chép của Sơn quỷ đi thăm núi đa số đều rất tường tận, rất nhiều tấm bản đồ còn có tỉ lệ rất chính xác. Nhưng chỉ riêng những câu kệ được truyền lại, thì lại mập mờ, không rõ nghĩa. Mạnh Thiên Tư nhìn mấy dòng chữ kia: "Vừa rồi em mới có một suy nghĩ, Sơn quỷ chúng ta, xưa nay không có kẻ thù, người cùng nghề, thì sao chúng ta vừa đến đây đã xảy ra án mạng? Em cũng đã hỏi Liễu Quan Quốc, Sơn hộ Ngọ Lăng vẫn luôn dùng tiền tiêu tai, dĩ hòa vi quý, chưa từng có xung đột với ai cả." Mạnh Kính Tùng suy nghĩ, liên hệ trước sau, bắt đầu hiểu ý cô: "Ý em là, mục đích của hung thủ không phải là giết Lưu Thịnh, mà là để ngăn cản chúng ta mổ núi?" Vẫn là câu nói đó, có một số việc không thể nghĩ nhiều. Vì càng nghĩ càng thấy mọi chuyện đúng là như vậy —— Mạnh Thiên Tư đến Tương Tây, là để lấy mật núi. Cô mở tiệc mời khách, chỉ là để chào hỏi xã giao thôi. Nhưng việc Lưu Thịnh bị giết hại đã làm thay đổi tầm quan trọng của vấn đề, nên việc lấy mật núi phải dời lại phía sau... Tim Mạnh Kính Tùng đập như trống bỏi: "Nhưng chuyện này, chỉ có mấy người biết..." Người trong nhà thì chắc chắn là không nói ra ngoài rồi. Bà Bảy để lộ tin cũng là do lỡ lời, chẳng lẽ là tên Thần Côn kia đi rêu rao khắp nơi, bị ai đó nghe được? Mạnh Thiên Tư cũng có suy nghĩ như vậy: "Thần Côn đâu?" "Bị Thẩm Bang và Thẩm Vạn Cổ dẫn đi leo núi Vũ Lăng rồi. Anh nói với ông ta, bây giờ vẫn còn đang chuẩn bị, bảo ông ta cứ chơi mấy hôm đi đã. Ông ta tưởng thật nên đi chơi rồi." Chuyện Lưu Thịnh bị giết hại, còn chưa kịp báo cho hai Thẩm. Mạnh Thiên Tư trầm ngâm: "Bảo hai người kia chú ý, đi ngủ cũng phải cảnh giác. Ông ta mà có hành động gì kỳ lạ, thì phải báo lại ngay. Chuyện của Lưu Thịnh phải điều tra thế nào thì cứ thế điều tra. Mặt khác, anh cho người chuẩn bị rầm rộ vào, để chúng ta đi vào trong bức tường biên giới nhỏ. Nếu mục đích của hung thủ đúng là để ngăn cản cô mổ núi, khi thấy biện pháp giết người này không hiệu quả, thì rất có thể sẽ ra tay lần nữa. Cô sẽ treo sẵn mồi câu trên cao, để chờ anh ta mắc câu. Dặn dò xong, Mạnh Thiên Tư không nói thêm gì nữa. Cô lại dời mắt lửa xuống dưới, dừng lại ở bên cạnh câu kệ ban nãy. Chỗ ấy có thêm một dòng chữ ghi chú nho nhỏ, viết là "Câu kệ vớ vẩn, nói hươu nói vượn". Kí tên: Đoạn Văn Hi. *** Cùng lúc đó, Thẩm Bang và Thẩm Vạn Cổ đang dẫn Thần Côn đi ăn khuya. Thật ra hai người này không có quan hệ máu mủ gì cả, nhưng lại đều họ Thẩm, tuổi tác xấp xỉ nhau, tính cách cũng na ná, may mà có dáng người bổ sung cho nhau, nên vẫn dễ phân biệt: Thẩm Vạn Cổ cao béo, đôi mắt nhỏ, tóc tai thưa thớt. Đám lông xoăn trên đỉnh đầu lại càng quý giá, nó che ở giữa, nhưng lại mặc kệ bốn bên, còn bốn bên thì đang nằm trong tình hình nguy hiểm, mỗi ngày đều phải chăm sóc cẩn thận, vì nó tính theo từng sợi. Thẩm Bang thì gầy lùn, mắt to, không chỉ nhiều tóc, mà trên người cũng rất nhiều lông, nhất là lông chân, nó mà dài thêm tí nữa là có thể tết thành bím. Hai người này là hạn thì thật hạn, úng thì thật úng, là người thông minh tiếc người thông minh, nên rất hợp cạ với nhau, đi đâu, làm gì cũng đều đi chung, nên được gọi là hai Thẩm. (*) Câu này có nghĩa là hai ông này, một ông thế này, một ông thế kia, nhưng tính cách lại hợp nhau, nên hay chơi với nhau. Trùng hợp là, bọn họ cũng ăn "ba lần nồi", còn gọi cả đồ nướng, củ cải chua và rượu nếp. Ba người đi chung với nhau đã gần mười tiếng đồng hồ, nên cũng thân quen hơn. Thần Côn uống rượu, mặt đỏ bừng bừng, đang kể cho hai người nghe những lần gặp nạn của mình. "Lúc ấy chú để ý, cổ trùng đó to thế này, dài thế này." Ông giơ tay ra miêu tả kích thước. Thẩm Vạn Cổ nhíu mày: "Sao cổ trùng đó giống bắp ngô thế? Cháu nghe người lớn kể, ở Tương Tây bọn cháu, cũng có các bà chuyên nuôi cổ, nhưng cổ các bà ấy nuôi chỉ nhỏ thế này thôi." Anh ta giơ một gang tay lên, sau đó cảm thấy vẫn còn dài, nên lại thu ngắn lại. Thẩm Bang đang nghe hay, thấy Thẩm Vạn Cổ xen vào thì nói: "Không phải nói là dùng thân nuôi cổ à? Dinh dưỡng tốt chứ sao. Với lại, Côn gia gặp được miêu cổ Điền Hắc, phải khác với miêu cổ của chúng ta chứ. Có thể bên kia, người ta nuôi được loại lớn." Thần Côn lại nói tiếp: "Chú vung dao ra, ai ngờ lại chặt làm đôi. Cả hai đoạn đều chạy được, chẳng lẽ để chúng nó chạy mất à? Chú hét lên một tiếng, dùng mông đè chết một nửa, nửa kia thì dùng dao băm băm, chặt chặt, cuối cùng cũng xong." Mặt mũi Thẩm Bang nhăn lại: "Vậy mông chú, không sao chứ?" "Sao lại không sao được? Nứt xương, không nằm được, phải nằm sấp mấy tháng đấy!" Thẩm Vạn Cổ hít sâu một hơi, vội vàng rót rượu cho Thần Côn: "Lợi hại, lợi hại, Côn gia quá lợi hại, kính..." Lúc đầu anh ta định nói "kính cái mông", sau đó cảm thấy nói vậy hơi mất lịch sự, nên đổi lại: "Cạn, cạn!" Thần Côn đắc ý, uống cạn chén rượu. Ông không biết uống rượu, cho dù là loại rượu đế ngọt lịm này, thì uống hai chén cũng đủ để đầu óc ông mơ màng. Ông mở to đôi mắt say lờ đờ, ngẩng đầu nhìn đỉnh núi màu đen trên cao. Núi Vũ Lăng rất lớn, nên dù còn cách khá xa, thì ban đêm vẫn có cảm giác núi đang ở ngay trên đầu mình: "Chú xem giới thiệu của khu du lịch, ngọn núi này, đã có hai, ba tỷ năm lịch sử." Thẩm Vạn Cổ vừa nhai, vừa nói: "Đúng vậy, một hòn đá nhỏ chú đá phải trên đường, cũng là tổ tông của tổ tông chú." Thần Côn khẽ than: "Vậy cháu nói xem, vì sao con người đứng đầu vạn vật, mà lại sống ngắn như vậy?" Thích xây nhà, lại không sống được dài như nhà, thích tích góp gia tài, lại không sống lâu được như vàng bạc, thích mua ruộng đất... Ha ha, thôi đi, càng sống không nổi. Thẩm Bang đang ăn thịt xiên nướng, anh ta thuần thục kéo tất cả mọi miếng thịt dê trên xiên vào miệng: "Côn gia, núi không ở cao, có thần tiên tất có danh, sinh mệnh không ở dài, chất lượng là được —— con người chúng ta, phải sống cho có chất lượng. Làm tảng đá thì có gì hay? Hai ba tỷ năm cũng vẫn là tảng đá, còn không biết nói chuyện. Thẩm Vạn Cổ xen vào: "Con người cũng có người sống lâu mà. Cái người gọi là Bành tổ đấy. Chẳng phải đã sống tám trăm tám à?" Thẩm Bang cười nhạt: "Người ta nói vậy mà ông cũng tin." Thần Côn nói: "Tiểu Bang Bang, lời này của cháu quá hẹp hòi. Bành tổ rất có thể là... cuối cùng... Ừ... cuối cùng..." Ông uống say, đầu lưỡi líu lại, Thẩm Bang cố gắng nghe mãi, mà cũng không thể nghe thấy đằng trước "cuối cùng" là cái gì. Cái gì cuối cùng nhỉ? Hoàng đế cuối cùng? Đó là Phổ Nghi mà. (*) Phổ Nghi: Hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc *** Sáng sớm, Mạnh Thiên Tư vừa dậy đã vội vàng xem xét vết thương nơi mắt trái. Thật ra sau khi bôi thuốc tây và thuốc của riêng Sơn quỷ, thì mắt cô đã đỡ hơn rất nhiều, có thể gọi là rất nhanh. Nhưng con gái thì luôn yêu quý nhan sắc, nên cô vẫn không thể hài lòng với mí mắt sưng vù này được. Tất cả là tại Giang Luyện, Mạnh Thiên Tư bực bội nghĩ. Cô cảm thấy trong phòng hơi ngột ngạt, nên kéo rèm cửa, mở cửa sổ ra. Đêm qua mưa suốt cả đêm, không khí bị sương sớm xen lẫn với mùi bùn, mùi hoa cỏ, mùi rừng cây gột rửa, nên rất tươi mát. Một buổi sáng đẹp như vậy, tiếc là lại bị một cục phân chuột phá hỏng. Mạnh Thiên Tư nhìn thấy Giang Luyện đứng ở dưới sân, hai tay đút túi, thái độ rất nhàn nhã. Dù không ai để ý đến anh, anh cũng có thể tự chơi một mình, lúc thì đi loanh quanh, lúc lại ngồi xổm xuống, vặt ngọn cỏ, chọc sâu kiến trong bồn hoa. Đầu anh lúc trái, lúc phải, ở giữa đỉnh đầu có một cái xoáy, báo hiệu tương lai anh sẽ bị hói từ nơi này hói ra. Một lát sau, hình như Giang Luyện đã nhận ra có người đang nhìn mình, nên nhìn ra xung quanh, đến khi anh ngẩng đầu lên, Mạnh Thiên Tư đã quay về ghế la hán rồi. Cô phe phẩy chiếc quạt nhỏ trong tay, càng quạt càng chậm, cuối cùng cô ném luôn chiếc quạt đi, đi đến bên cửa, mở toang cửa ra. Mạnh Kính Tùng vừa hay đi đến trước cửa phòng cô, thấy cô mở cửa ra thì giật nảy mình. Rất tốt, cô đỡ phải gọi. Mạnh Thiên Tư hất hàm về phía cửa sổ: "Sao cái tên họ Giang kia lại ở Vân Mộng Phong?"